Luật số 03/2022/QH15 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Đầu tư, Luật Nhà ở, Luật Đấu thầu, Luật Điện lực, Luật Doanh nghiệp, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thi hành án dân sự được ban hành ngày 11/01/2022 và có hiệu lực thi hành ngày 01/03/2022. Những nội dung liên quan đến Luật Doanh nghiệp được quy định tại Điều 7 của Luật sửa đổi, bổ sung đã có tác động đến nhiều khía cạnh hoạt động quản trị của doanh nghiệp nhằm thích nghi điều kiện khách quan và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp khắc phục khó khăn trong thực tiễn thi hành.
Những điểm mới quan trọng của Luật Doanh nghiệp (LDN) 2020 được sửa đổi, bổ sung năm 2022 bao gồm 5 vẫn đề chính sau đây:
I. Quy định về thành viên công ty (Điều 49 và Điều 50).
Sửa đổi về Quyền và nghĩa vụ của thành viên Hội đồng thành viên (HĐTV) như sau:
1. Sửa đổi, bổ sung tên điều và đoạn mở đầu khoản 1 Điều 49 như sau:
“Điều 49. Quyền của thành viên công ty: 1. Thành viên công ty có các quyền sau đây:”.
2. Sửa đổi, bổ sung tên Điều 50 như sau: “Điều 50. Nghĩa vụ của thành viên công ty”.
Chế định về Công ty TNHH hai viên trở lên theo LDN 2020 trước khi sửa đổi, thì khái niệm về HĐTV được quy định tại Điều 55, tức là sau quy định tại Điều 49, 50 về quyền và nghĩa vụ của “thành viên HĐTV”. Ngoài ra, trong điều khoản giải thích từ ngữ tại khoản 29 Điều 4 lại sử dụng thuật ngữ “thành viên công ty”. Việc quy định như vậy là chưa hợp lý về cả mặt kỹ thuật lập pháp mặt nội dung vì tổ chức là thành viên của công ty mới là đối tượng điều chỉnh của điều luật.
Do vậy việc sửa đổi cụm từ “thành viên Hội đồng thành viên” thành cụm từ “thành viên công ty” nhằm đảm bảo tính thống nhất của Điều 49, 50 LDN 2020 với các quy định liên quan của Luật này.
II. Quy định về việc ký biên bản họp HĐTV/ Hội đồng quản trị (‘HĐQT’) (Điều 60, Điều 158)
Nội dung sửa đổi tại khoản 2, 3 Điều 60 (Biên bản họp HĐTV) và khoản 2 Điều 158 (Biên bản họp HĐQT) bao gồm:
- Bỏ yêu cầu về chữ ký của người dự họp không đồng ý thông qua biên bản họp HĐTV trong quy định về nội dung biên bản;
- Quy định trường hợp chủ tọa, người ghi biên bản từ chối ký biên bản họp thì biên bản này có hiệu lực nếu được đã tham dự họp đồng ý thông qua biên bản họp ký.
- Bổ sung trách nhiệm liên đới của người ký biên bản họp Hội đồng quản trị (‘HĐQT’) và của cá nhân Chủ tọa, người ghi biên bản họp HĐTV/HĐQT đối với thiệt hại xảy ra đối với doanh nghiệp do từ chối ký biên bản họp theo quy định của Luật này, Điều lệ công ty và pháp luật có liên quan.
Theo quy định trong Luật Doanh nghiệp 2020, để biên bản có hiệu lực trong trường hợp chủ tọa, người ghi biên bản từ chối ký, thì phải có chữ ký của cả những thành viên không đồng ý thông qua biên bản họp. Tuy nhiên thực tế những thành viên này thường không hợp tác, không chịu ký tên vào biên bản họp dẫn đến biên bản không đảm bảo đủ nội dung chủ yếu theo quy định của Luật và không có hiệu lực. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến thẩm quyền quyết định của HĐTV/Hội đồng quản trị trong điều hành, quản trị doanh nghiệp.
Do vậy, việc bổ sung và thống nhất các Điều 60, 168 về việc ký biên bản họp HĐTV/HĐQT theo hướng giảm bớt sự phụ thuộc của hiệu lực biên bản vào chữ ký của người dự họp không đồng ý thông qua sẽ khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thi hành ở trên.
III. Sửa quy định về công bố thông tin định kỳ của DNNN (điểm d khoản 1 Điều 109)
Cụ thể, một trong những thông tin được công bố định kỳ của DNNN là:
Báo cáo và tóm tắt báo cáo tài chính giữa năm, bao gồm cả báo cáo tài chính của công ty mẹ và báo cáo tài chính hợp nhất (nếu có); việc công bố phải thực hiện trước ngày 31 tháng 7 hằng năm.
Theo quy định hiện hành, thì yêu cầu báo cáo và tóm tắt báo cáo tài chính giữa năm đã được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán độc lập; thời hạn công bố phải trước ngày 31 tháng 7 hằng năm; bao gồm cả báo cáo tài chính của công ty mẹ và báo cáo tài chính hợp nhất (nếu có);
Việc bỏ quy định về bắt buộc kiểm toán đối với báo cáo tài chính giữa năm của doanh nghiệp so với quy định của LDN 2020 được hướng dẫn tại điểm g khoản 1 Điều 23 Nghị định số 47/2021/NĐ-CP ngày 01/4/2021 của Chính phủ thì nghĩa vụ định kỳ công bố báo cáo và tóm tắt báo cáo tài chính giữa năm của doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ phải được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán độc lập trên trang thông tin điện tử của công ty và của cơ quan đại diện chủ sở hữu. Điều này sẽ góp phần khắc phục những bất cập trên, tạo điều kiện cho số lượng lớn doanh nghiệp nhà nước trong việc thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin theo luật địn; giảm các vấn để sau: phát sinh thêm những chi phí vô lý, tốn kém thời gian cho doanh nghiệp, gián tiếp làm giảm nguồn thu ngân sách nhà nước trên thực tế, đồng thời không bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật trong thực hiện công bố thông tin doanh nghiệp
IV. Sửa điều kiện để nghị quyết Đại hội đồng cổ đông được thông qua (khoản 1 và khoản 2 Điều 148)
Theo đó, Nghị quyết về nội dung sau đây được thông qua nếu được số cổ đông đại diện từ 65% tổng số phiếu biểu quyết trở lên của tất cả cổ đông tham dự và biểu quyết tại cuộc họp tán thành, trừ trường hợp quy định tại các khoản 3, 4 và 6 Điều 148; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định:
- Loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng loại;
- Thay đổi ngành, nghề và lĩnh vực kinh doanh;
- Thay đổi cơ cấu tổ chức quản lý công ty;
- Dự án đầu tư hoặc bán tài sản có giá trị từ 35% tổng giá trị tài sản trở lên được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty, trừ trường hợp Điều lệ công ty quy định tỷ lệ hoặc giá trị khác;
- Tổ chức lại, giải thể công ty;
- Vấn đề khác do Điều lệ công ty quy định.
Các nghị quyết được thông qua khi được số cổ đông sở hữu trên 50% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông tham dự và biểu quyết tại cuộc họp tán thành, trừ trường hợp quy định tại các khoản 1, 3, 4 và 6 Điều 148; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định.
Các nghị quyết được thông qua khi được số cổ đông sở hữu trên 50% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp tán thành, trừ trường hợp quy định tại các khoản 1, 3, 4 và 6 Điều 148; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định.
Do vậy, việc quy định sửa đổi về nội dung chỉ tính kết quả bỏ phiếu của “cổ đông tham dự và biểu quyết tại cuộc họp tán thành” là hợp lý để khắc phục những vướng mắc trong thực tiễn thi hành
V. Sửa đổi, bổ sung khoản 5 Điều 217 (Điều khoản thi hành)
5. Căn cứ vào quy định của Luật này, Chính phủ quy định chi tiết việc tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh hoặc kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh là doanh nghiệp nhà nước và công ty trách nhiệm hữu hạn do doanh nghiệp nhà nước quy định tại khoản 2 Điều 88 của Luật này nắm giữ 100% vốn điều lệ.”
Với quy định như vậy thì việc tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp nhà nước trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh hoặc kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh. Cụ thể Luật Doanh nghiệp 2020 trước khi sửa đổi chưa xác định rõ hình thức của doanh nghiệp trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh hoặc kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh. Trong khi đó, khoản 1 Điều 13 Nghị định định số 47/2021/NĐ-CP ngày 1/4/2021 của Chính phủ quy định chi tiêu một số điều của Luật Doanh nghiệp quy định hình thức này phải là “công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp”.
Như vậy “quyền đại diện chủ sở hữu nhà nước” ở đây có thể hiểu bao gồm cả hình thức công ty con do công ty mẹ nắm giữ 100% vốn điều lệ mà công ty mẹ là doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ (theo khoản 2 Điều 88 Luật Doanh nghiệp 2020). Bên cạnh đó, thực tế hiện nay, trên cơ sở chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Quốc phòng đang thực hiện sắp xếp doanh nghiệp thuộc Bộ theo hướng tổ chức lại các doanh nghiệp để hình thành mô hình công ty mẹ – công ty con. Trong đó, công ty mẹ là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ; các công ty con hoạt động theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn do Công ty mẹ sở hữu 100% vốn điều lệ cũng được Bộ Quốc phòng, Bộ Công an giao thực hiện các nhiệm vụ trực tiếp phục vụ quốc phòng an ninh. Tuy nhiên, cách hiểu này có thể bị mâu thuẫn với các hình thức doanh nghiệp nhà nước được quy định tại Điều 88 Luật Doanh nghiệp 2020.
Luật số 03/2022/QH15 có hiệu lực từ ngày 01/3/2022.